Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Châu Phú

Thứ ba - 16/07/2024 09:40

 

Đình Châu Phú thuộc phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc. Đình tọa lạc tại góc đường Trần Hưng Đạo giao với Nguyễn Văn Thoại, ch Long Xuyên 56km.

Đình Châu Phú được xây dựng cách nay gần 170 năm. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, phần An Giang tỉnh, mục đền miếu có ghi: “Đình Châu Phú do Thoại Ngọc Hầu (Nguyễn Văn Thoại) dựng lên vào thời gian 1820 - 1828”. Riêng về kiến trúc nghệ thuật của đình Châu Phú thì sách trên không ghi rõ, cả về gia phả và bảng tôn thần, sự tích ở đình cũng không thấy ghi chép nên việc tìm nguồn gốc, xuất xứ vô cùng khó khăn.

Theo lời kể của các vị bô lão thì đình Châu Phú đã trải qua nhiều lần xây dựng từ chất liệu gỗ tạp, lợp lá đơn sơ đến cột gỗ căm xe, vách ván, nền lót gạch tàu. Năm 1926, thực dân Pháp chọn khu vực đình là điểm xây dựng bệnh viện Châu Đốc, nên bà Huỳnh Thị Phú và Hương chủ Lan đứng ra vận động nhân dân đóng góp tiền của di chuyển đình đến đầu chợ để xây dựng lại ngôi đình mới hiện nay. Công trình xây dựng đình Châu Phú năm 1926 quá lớn, nên số tiền của nhân dân và công quỹ làng Châu Phú không đủ, chính quyền của thực dân Pháp tỉnh Châu Đốc tổ chức mở số Tôm-bô-la, chính nhờ vào số tiền này, đình Châu Phú xây cất hoàn chỉnh và khang trang cho đến ngày hôm nay. Đình có diện tích ngang 16m, dài 40m, rất kiên cố, nguy nga nhưng cổ kính mang sắc thái văn hóa dân tộc đậm nét, tường gạch hồ vôi, ô dước, mái lợp ngói đại tiểu, nền lót gạch hoa, cột căm xe, cà chất. Bên trong có 4 hàng cột 40 cây to 2 vòng tay, kèo, cột, hoành phi, liễn đối sơn son thếp vàng, chạm trổ rất đặc sắc, như hình bát tiên, tứ linh, chim muông, bông hoa, nổi bật nhất là chạm khắc rồng đậm nét thời Nguyễn.

Đến năm 1960, đình Châu Phú được tu bổ thêm cổng rào xung quanh theo kiểu thượng song hạ bản dưới xây gạch, trên là song sắt, càng làm cho đình trang nghiêm và thoáng mát. Năm 1978, trong chiến tranh biên giới Tây Nam, đình bị một trái pháo của bọn Pôn-Pốt làm hư nóc mái sau, đã được nhân dân sửa lại như cũ.

Tượng tôn thần bằng gỗ được thờ tại đình là Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Ông sinh năm 1650 mất ngày 8/5/1700 (năm Canh Thìn). Ông thuộc dòng dõi của Đức Nhị Khuê Nguyễn Trãi - vị khai quốc công thần triều hậu Lê. Thân phụ ông là Nguyễn Hữu Dật, là một trong ba vị đệ nhất công thần của chúa Nguyễn Hoàng. Nguyên quán của ông ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sau đó gia đình ông được chuyển vào tỉnh Quảng Bình. Lúc thiếu thời ông theo cha đánh giặc lập công lớn nên được ban chức Cai cơ. Đời Chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) năm thứ 2 (1692), vua nước Chiêm Thành làm phản nhóm họp dân binh, xây cất đồn lũy, cướp bóc và sát hại nhân dân. Chúa Nguyễn phong ông làm Thống binh dẫn binh đi chinh phạt, khi thắng trận trở về, Nguyễn Hữu Cảnh được phong chức Chưởng cơ lãnh trấn thủ Bình Khương Dinh.

Năm Mậu Dần 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh triều đình đem binh kinh lược Chân Lạp. Khi đến nơi, Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Đông Phố, Biên Hòa, Gia Định lập ra hai trấn đầu tiên ở Nam Bộ là Phiên Trấn và Biên Trấn lại đặt chức Giám quân cai bạ và chức Ký lục để trông coi việc nước.

Mùa thu năm Kỷ Mão (1699), vua nước Chân Lạp là Nặc - Yêm cho quân kéo sang đánh phá Việt Nam. Chúa Nguyễn Phúc Chu giao Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất đem quân kinh lược Chân Lạp.

Mùa xuân năm Canh Thìn (1700), Nguyễn Hữu Cảnh kéo binh đến Long Hồ (Vĩnh Long) xây dựng mặt trận và cho quân trinh sát tình hình địch. Sau khi nắm rõ tình hình quân địch, Nguyễn Hữu Cảnh chia quân ra làm hai đạo thẳng tiến Nam Vang, đánh tan quân của vua Chân Lạp. Nguyễn Hữu Cảnh vào thành xếp đặt công việc an ninh, chính trị, ổn định đời sống nhân dân. Xong việc Nguyễn Hữu Cảnh kéo binh trở về cù lao Cây Sao (sau này đổi tên là cù lao Ông Chưởng, thuộc huyện Chợ Mới), cho binh sĩ nghỉ ngơi, vấn an dân tình, khuyên bảo nhân dân lo làm ăn lập nghiệp. Trong thời gian ở lại cù lao Cây Sao chờ lệnh chúa Nguyễn, ông lâm bệnh nặng vào ngày mùng 5 tháng 5 (tết Đoan Ngọ), sau đó ông kéo quân về tới Rạch Gầm (Mỹ Tho) thì mất vào ngày 9/5/1700 hưởng thọ 51 tuổi. Dân chúng quanh vùng, binh sĩ, tướng sĩ vô cùng thương tiếc, thi hài ông được đem về an táng tại cù lao Phố (Biên Hòa).

Kể từ thuở thiếu thời đến khi mất, ông đã qua các chức vụ  như: Cai cơ, Chưởng cơ, Thống binh kinh lược khâm sai, Chưởng binh,…

Nguyễn Hữu Cảnh được nhà Nguyễn phong tặng các tước hiệu như sau:

Triều Gia Long thứ 9 (1810), Nguyễn Hữu Cảnh được thờ vào miếu Khai Quốc công thần.

Triều Minh Mạng thứ 12 (1831), truy tặng ông Tước vị khai Quốc Công thần, Tráng võ tướng quân, Thần cơ Đô thống, tước Vĩnh An Hầu.

Sắc Tự Đức ngày 29/11/1852, truy tặng ông là Lễ Thành Hầu. Để tưởng nhớ công lao, nhân dân lập đền thờ ông ở nhiều nơi trong tỉnh, nhất là dọc theo bờ sông Hậu, cù lao Ông Chưởng, nơi

ông đóng quân trên đường trở về.

Hàng năm, đình Châu Phú tổ chức lễ Kỳ Yên vào 3 ngày: mùng 9, 10, 11 tháng 5 âm lịch, đó là lễ kỷ niệm ngày mất của Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, nhân dân khắp nơi về dự rất đông và cứ 3 năm tổ chức xây chầu Đại bội một lần. Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Châu Phú được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng theo Quyết định số 1288/VH-QĐ ngày 16/11/1988.

 

 

Tác giả: admin

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

GIỜ THAM QUAN
Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần (Trừ thứ Hai).

Thống kê truy cập
  • Trực tuyến11
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm10
  • Hôm nay830
  • Tháng hiện tại9,811
  • Tổng cộng59,661
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi