An Giang nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, là một tỉnh lớn của đồng bằng sông Cửu Long, hàng năm cung cấp lượng lương thực khá lớn cho cả nước. Do có điều kiện tự nhiên thuận lợi và vị trí chiến lược quan trọng nên An Giang đã sớm rơi vào tay của Pháp ngay từ buổi đầu quân Pháp xâm lược và tiến đánh chiếm các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
Với tinh thần yêu nước bất khuất và chống giặc ngoại xâm mãnh liệt nên ngay từ những buổi đầu mất nước nhân dân cả nước đã không ngại hi sinh đứng lên đấu tranh, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra liên tục: khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, lãnh binh Trần Hữu Hạnh, Đức cố quản Trần Văn Thành (súng thần công Đức cố quản sử dụng chống lại quân Pháp). Tuy nhiên những cuộc khởi nghĩa đều thất bại vì thiếu sự lãnh đạo của một chính Đảng.
An Giang còn là nơi các sĩ phu yêu nước tìm đến: Cụ nghè Trương Gia Mô, cụ Nguyễn Sinh Sắc,…đến đây để truyền bá hun đúc tinh thần yêu nước cho nhân dân.
Năm 1911 tại bến cảng nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin (6/1925) Người đã khẳng định “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc thì không có con đường nào khác ngoài con đường Cách mạng vô sản”. Tại Quảng Châu – Trung Quốc, Người đã viết và xuất bản sách Đường Cách Mệnh.
Tháng 2 năm 1927, đồng chí Nguyễn Ngọc Ba được kỳ bộ phân công vào hoạt động ở vùng Hậu Giang – Long Xuyên, đồng chí chọn trường Trần Minh (nay là trường Trung học Cơ sở Nguyễn Trãi) làm nơi dạy học và phát triển hội viên.
Cuối năm 1927, chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đầu tiên ở An Giang ra đời tại Chợ Mới gồm 3 đồng chí: Châu Văn Liêm, Bùi Trung Phẩm, Lâm Văn Cẩn. Chi bộ tích cực vận động quần chúng tham gia vào hội, qua đó giáo dục, kết nạp những người tích cực vào tổ chức (ảnh: Chùa Long Phú, Lấp Vò – Cơ sở Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội; (Chỉ hiện vật: bàn Bureau đựng tài liệu của chi bộ tại chùa)
Ngày 3/2/1930, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản hợp nhất 3 tổ chức cộng sản trong nước thành Đảng cộng sản Việt Nam. Đầu tháng 4/1930, chi bộ Đảng đầu tiên ở An Giang được thành lập, để chào mừng sự kiện này chi bộ cử ông Lê Văn Đỏ - 1 quần chúng tốt treo lá cờ Đảng lên cột dây thép ở Long Điền (Chợ Mới).
Từ khi có Đảng lãnh đạo các phong trào đấu tranh nổ ra liên tục và sôi nổi. Trong thời gian này ta có một số cơ sở bí mật như: nền nhà ông Chánh Y là nơi in ấn, cất giữ tài liệu ở Long Điền, Bửu Linh tự là nơi cán bộ Đảng viên hội họp cất giấu truyền đơn của Đảng những năm 1930.
Tháng 6 năm 1938, hàng trăm quần chúng xã Mỹ Luông, Long Điền, Kiến An kéo vào dinh quận Chợ Mới yêu cầu bọn lính chấm dứt việc khám nhà vô cớ và bắt thanh niên đi lính (Chỉ ảnh: bà 6 Nhỏ - một người dân từng đấu tranh trong việc chống bắt lính). Phát huy thắng lợi đã đạt được, Chợ Mới đã tổ chức đấu tranh trong lễ kỷ niệm trong ngày 01tháng 5 gây tiếng vang lớn (Chỉ ảnh: bài đăng trên báo Dân chúng sự kiện 01 tháng 5).
Để chuẩn bị khởi nghĩa Nam Kỳ và chấp hành chủ trương của xứ ủy Nam Kỳ, mặc dù nhận lệnh trễ, Đảng bộ An Giang triệu tập cuộc họp tại nhà đồng chí Bội, do đồng chí Lương Văn Cù chủ trì cuộc họp quyết định thành Ủy ban khởi nghĩa. (Chỉ tranh vẽ cuộc họp)
Đúng giờ pháo lệnh nổ ra, vùng điểm Chợ Mới do đồng chí Lĩnh chỉ huy xông lên đốt nhà việc, đốt bưu điện .
Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Pháp bắt giam 315 cán bộ Đảng viên, những người yêu nước vào khám lớn thị xã Châu Đốc, xử tử 3 đồng chí: Huỳnh Văn Hây, Nguyễn Lương Dược, Lê Minh Ngươn tại chân núi Sam.
Sau khởi nghĩa năm 1940, phần lớn các cơ sở bị lộ, các tổ chức bị đứt liên lạc.
Đến 8/2/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, Người chủ trì cuộc họp Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nhấn mạnh nhiệm vụ bức thiết nhất lúc bấy giờ là vấn đề giải phóng dân tộc giành độc lập đất nước. Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh hội, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh và đề ra chương trình Việt Minh.
Phong trào cách mạng ở An Giang 1942 – 1944 phát triển lan rộng khắp toàn tỉnh.
Năm 1945:
Đồng chí Lê Thiện Tứ - người lãnh đạo cướp chính quyền ở Chợ Mới.
Cơ bản đến ngày 25/8, toàn tỉnh An Giang đã được giải phóng.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, mở ra thời kỳ mới, thời kỳ nhân dân làm chủ vận mệnh của mình.
Sau cách mạng tháng 8 thành công, nhân dân ta còn đương đầu với nhiều khó khăn, Pháp không từ bỏ ý định xâm lược nước ta, 23/9/1945 núp sau bóng quân Anh, Pháp một lần nữa trở lại xâm lược nước ta. Nhân dân ta với gậy gộc tầm vông nhất tề đứng lên chống giặc ngoại xâm.
Tháng 11/1945, tại vùng Bảy Núi, Pháp cho quân nhảy dù xuống cánh đồng núi Tô, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân An Giang đã kịp thời phá tan âm mưu này, tịch thu toàn bộ vũ khí bắt quân địch đưa về tỉnh.
Ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tạm ước với Pháp, hai bên ngừng bắn, nhân dân ta nghiêm chỉnh thi hành hiệp định nhưng Pháp đã phản bội tạm ước, không còn con đường nào khác ta phải dùng bạo lực tiêu diệt quân xâm lược.
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, trong thư Bác kêu gọi: “Ai có súng thì dùng súng, có gươm thì dùng gươm, ai không có gươm thì dùng cuốc, xẻng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống Pháp cứu nước”. Ta liên tiếp đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: hạ tàu Glycine D27, máy bay MZ712.
Trong kháng chiến chống Pháp các vũ khí hầu hết là tự tạo như xà beng, lao cổ phụng, mác, gậy có lưỡi nhọn bên trong…(Chỉ hiện vật)
Năm 1950: thực hiện chủ trương mở rộng vùng giải phóng ta mở chiến dịch Long Châu Hà I tại cầu sắt Vĩnh Thông do đồng chí Tăng Thiện Kim làm chỉ huy trưởng. Trong trận này, ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng tạm thời tuyến đường Châu Đốc -Tri Tôn, phá vỡ một số đồn bốt địch.
Năm 1951: ta chủ động mở chiến dịch Long Châu Hà II giải phóng tuyến đường Vĩnh Hanh - Trà Kiết, tại đồn Vĩnh Trạch, diệt đại đội 17 của địch, bắt sống thiếu tá Niệm.
Năm 1954: cuộc kháng chiến của nhân dân đang nổ ra liên tục và rộng đều khắp địa bàn tỉnh. Ở Điện Biên Phủ, quân ta chiến thắng vang dội, bắt sống tướng Đờ-cat-tơ-ri cùng bộ tham mưu. Chiến thắng của quân và dân ta trên mặt trận Điện Biên Phủ buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ tại Thụy Sỹ vào ngày 20/7/1954 chấm dứt sự thống trị 80 năm của quân Pháp ở nước ta, hai bên ngừng bắn, những tên Pháp cuối cùng đã rút khỏi khỏi Việt Nam, chiến sĩ ta chuẩn bị tập kết ra Bắc.
Khi Pháp vừa rút khỏi Việt Nam thì Mỹ lại nhảy vào, nhân dân ta vừa kết thúc ách áp bức hơn 80 năm của Pháp thì lại phải đương đấu với quân Mỹ và tay sai. Đầu tiên chúng tiến hành chiến tranh đơn phương, cho tàu chiến vào Sài Gòn để phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, tổ chức ruồng bố bắt bớ nhân dân ta. Đảng bộ và nhân dân An Giang đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang.
Năm 1955: Mỹ lật đỗ Bảo Đại đưa Diệm lên làm tổng thống không thông qua tổng tuyển cử. Dưới sự điều khiển của Mỹ, chính quyền Diệm ngày càng khủng bố đồng bào yêu nước, lập khu trù mật, đưa dân vào ấp chiến lược. Tại cuộc họp Quốc hội khóa I Hồ Chủ tịch đã rất xúc động khi nhắc đến đồng bào miền Nam ruột thịt còn đang chịu cảnh chia cắt.
Năm 1959: Diệm ban hành luật 10/1959 là luật phát xít tàn bạo nhất, theo đó chúng lê máy chém đi khắp nơi tàn sát nhân dân.
Ngày 20/12/1960: Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, chủ trương “đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo…không phân biệt xu hướng chính trị để đánh đổ ách thống trị của Mỹ” đưa cách mạng sang giai đoạn mới.
Năm 1961 – 1963: Địch chủ trương dồn dân vào ấp chiến lược, chúng cho máy bay F105 dội bom xuống thôn xóm đồng bào xã Ô Lâm và chính chiếc máy bay này bị du kích ta bắn rơi. Ta đấu tranh với địch bằng nhiều hình thức, thiếu nhi xã Thiện Mỹ đóng góp công sức bằng cách nhặt chì vụn cho xưởng công binh chế tạo vũ khí.
Mùa xuân năm 1968: chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy, lực lượng vũ trang An Giang trên đường hành quân chuẩn bị tấn công vào thị xã Châu Đốc, phá cầu ngăn đường tiếp viện của quân địch.(Chỉ ảnh)
Ở An Giang địch tập trung tấn công vào vùng Bảy Núi và thị xã Châu Đốc, cán bộ chiến sĩ ta rút về căn cứ cách mạng ở đồi Tức Dụp, mỗi tấc đất ở ngọn đồi này đều in đậm dấu tích của quân dân An Giang anh hùng. Đội nữ pháo binh Tịnh Biên – Tri Tôn trở thành mối đe dọa khủng khiếp cho địch. Cuộc chiến đấu trên đồi Tức Dụp có nhiều chuyển biến mới, sau 128 ngày đêm chiến đấu ta tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, mở rộng vùng giải phóng, du kích ngày đêm canh giữ cho nhân dân yên ổn làm ăn, phục vụ văn nghệ đồng thời sản xuất vũ khí, may quân dụng phục vụ chiến đấu…
Trong lúc quân dân cả nước đang đấu tranh với cuộc tấn công càn quét quy mô ngày càng lớn của địch thì một tin đau đớn đến với toàn thể nhân dân Việt Nam, ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già của dân tộc đã vĩnh viễn ra đi với sự tiếc thương vô hạn của đồng bào Việt Nam. Cơ quan đấu tranh tỉnh ra số báo đặc biệt ghi nhận mất mát to lớn này, toàn thể đơn vị đội biệt động đóng quân trên đồi Tức Dụp làm khăn tang để tang Bác. Đau thương này làm tăng thêm lòng quyết tâm đánh giặc của quân dân ta.
Năm 1970 – 1971, thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mỹ càng tăng cường sức ép, chúng dùng bom mìn Play-mo truy lùng cán bộ. Dù gay go ác liệt, quân dân An Giang vẫn kiên cường chiến đấu không ngại hi sinh, đánh địch ở các đồn, phá ấp bình định, hủy xe M113 của địch và tổ chức Đại hội chiến sĩ thi đua ở núi Tượng Lăng, khen thưởng động viên chiến sĩ, triển lãm vũ khí tự tạo,…
Năm 1972: Ta đánh bại nhiều đợt tấn công lấn chiếm địa bàn của địch, góp phần đập tan chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” tạo thế mạnh cho việc ký Hiệp định Paris.
Năm 1973: Đánh dấu một bước ngoặc quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Ngày 27/11/1973, Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình được ký kết ở Paris buộc “Hoa Kỳ và các nước khác phải công nhận độc lập chủ quyền của ta như hiệp định Giơ-ne-vơ đã công nhận”. Những tên lính Mỹ cuốn cờ rút khỏi miền Nam Việt Nam dưới sự giám sát của quân đội ta nhưng chúng lật lọng không thi hành hiệp định. Ở An Giang chúng mở nhiều đợt tấn công vùng giải phóng. Trước tình hình đó dân tộc ta không kể già, trẻ, thanh niên, dân tộc…nô nức gia nhập quân giải phóng.
Năm 1974: Ta đánh bại thêm nhiều kế hoạch cắm cờ giành dân của địch, giải phóng thêm nhiều xã.
Năm 1975: Tình hình trong nước rất khả quan, lần lượt các tỉnh miền Trung được giải phóng. Bộ chính trị và Quân Ủy Trung Ương chỉ đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh.
Trước sức tiến công như vũ bão của quân giải phóng ngày 29/4/1975 những tên Mỹ cuối cùng đã rút khỏi Việt Nam.
11h30 ngày 30/4/1975 cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh độc lập, tổng thống ngụy Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Ở An Giang ngày 30/4/1975 đồng loạt các nơi trong tỉnh nổi dậy giành chính quyền tiếp quản thị xã Châu Đốc, Long Xuyên. Tây An cổ tự là một trong những nơi địch cố thủ cuối cùng. Nhân dân vui mừng đón quân giải phóng ở Long Xuyên, Châu Đốc. Ngày 5/5/1975 ta giải phóng hoàn toàn.
Thắng lợi của ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ mà đỉnh cao là chiến thắng 30 tháng 4 đã đi và lòng người như một bản anh hùng ca mãi mãi, quân dân An Giang đã viết nên những trang sử vàng hào hùng và đó chính là những thành tựu đạt được như ngày nay.
Tác giả: admin
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn
GIỜ THAM QUAN
Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần (Trừ thứ Hai).