Đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang sống tập trung nhiều ở các huyện miền núi: Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn. Dân số 75.878 người, chiếm 3,98% dân số toàn tỉnh (2019), đứng thứ hai về dân số sau dân tộc Kinh ở An Giang. Nhà ở của đồng bào được cất ven triền núi, trên những giồng đất cao, là những nhà đất vách lá hay được cất khang trang hơn như nhà gỗ lợp tol, ngói, hoặc đúc tường,…
Đối với đồng bào Khmer, văn hóa cộng đồng luôn được đề cao, tiêu biểu cho loại hình này là mô hình nhà nghỉ mát, hay còn gọi là Schla(còn gọi là Tha La). Schla với người Khmer là nhà sinh hoạt chung sau giờ làm việc mệt nhọc hay là nơi chia sẻ niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống. Tùy điều kiện ở từng phum, sóc mà kiến trúc xây dựng ở mỗi Schla sẽ khác nhau, nhưng nhìn chung đều chọn lối xây dựng thoáng mát, không gian phù hợp cho mọi điều kiện sinh hoạt, nghỉ ngơi. Tên gọi mỗi Thala cũng dựa vào vật liệu xây dựng hay địa hình xung quanh để đặt tên cho dễ gọi, dễ phân biệt. Trong không gian ngôi nhà nghỉ mát này chúng tôi có sắp xếp trưng bày những hiện vật liên quan cần thiết trong sinh hoạt hằng ngày như: những chiếc nồi bằng đồng dùng nấu cơm; chiếc hũ nhỏ bằng gốm dùng đựng muối, mắm; hay bộ sưu tập ô nhỏ đựng nước uống;… Hay như phía đối diện là bộ sưu tập những nhạc cụ truyền thống giúp đồng bào giải trí sau những giờ lao động mệt nhọc. Điển hình có thể thấy nét đặc sắc ở bộ trống Sa-Yăm, với lối tạo hình trụ tròn, phình một đầu được bọc da trâu dùng phối hợp mỗi khi trình diễn; hay như nhạc cụ đàn Ch’pay với tạo hình cán khá dài sẽ được kết hợp với lối ca Chằm- riêng là một trong những di sản phi vật thể cần bảo lưu và phát triển ở đồng bào dân tộc.
Đồng bào Khmer sống chủ yếu bằng nghề nông với trồng lúa là chủ đạo, dụng cụ làm nông của người dân tộc được trang trí khá đẹp mắt và đa dạng về kiểu dáng đảm bảo tính thời trang nhưng rất hữu dụng trong sử dụng: như những chiếc vòng gặt dùng cắt lúa; hay những chiếc kẹp lúa, dao quéo,… ngày nay do nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên đa phần những nông cụ này không còn sử dụng rộng rãi, thay vào đó là những loại máy móc công nghiệp giúp giải phóng sức người, sức vật; dụng cụ bắt thủy sản cũng đa dạng với nhiều kích thước và chủng loại như:, xà neng xúc cá, tép, giỏ đựng cá,…; phía dưới bày một cây cày dùng xới đất chuẩn bị cho mỗi vụ mùa, loại cày này được dùng bằng sức kéo của trâu bò. Một bộ cối chày dùng giả cốm dẹp được làm bằng chất liệu gỗ, đục đẽo nguyên khối.
Bên cạnh nghề nông, dân tộc Khmer còn có những nghề truyền thống khác, như nghề nấu đường thốt nốt. Hình ảnh đặc trưng của đồng bào Khmer ở An Giang được gắn liền với những cây thốt nốt được trồng xen kẻ trên những cánh đồng, trên triền núi, hay ngay bên cạnh ngôi nhà. Cây thốt nốt được trồng rất lâu mới thu hoạch, khi thu hoạch thì được tận dụng tất cả: bông cho nước làm đường hoặc dùng làm nước giải khát,…; trái để ăn hay làm kẹo mứt; lá dùng gói đường tán, nấu ăn, hay lợp nhà. Mặc dù việc nấu đường khá đơn giản nhưng phải trải qua nhiều công đoạn và thể hiện rõ sự phân công lao động giữa các thành viên trong gia đình: đàn ông làm những phần việc nặng nhọc và nguy hiểm như leo cây lấy nước, còn phụ nữ giữ nhiệm vụ nấu đường. Xin giới thiệu các hiện vật liên quan đến nghề nấu đường của bà con Khmer như: ống tre lấy nước, vỏ cây sến, hay khuôn đổ đường,…Ngoài ra còn có các nghề truyền thống khác như: làm gốm, làm cà ràng, dệt thổ cẩm,.. với những dụng cụ dùng làm nghề như: cây dập, vuốt, thoi chỉ, con ắc,...; sản phẩm dệt của đồng bào Khmer rất đẹp mắt và cũng tạo được nét rất riêng (phần lớn người Khmer tự dệt vải may trang phục cho mình).
Người Khmer vùng Bảy Núi An Giang theo tín ngưỡng Nam tông, nghĩa là “Chết là về sống ở một thế giới khác, nơi đó linh hồn sẽ bất tử”, nên vấn đề ma chay rất được để tâm. Người chết được đem đi thiêu và chôn cất ngay trên phần đất của gia đình hay quàn tại khuôn viên chùa. Xác chết sau khi liệm sẽ được chở đi ba vòng xung quanh nơi chuẩn bị thiêu theo hướng ngược chiều kim đồng hồ mang ý nghĩa: người chết đã được chuyển về thế giới âm. Chỉ ảnh; Mộ mới chôn sẽ được dựng túp lều bằng lá che phía trên. Hằng năm đến ngày kị hay dịp Sen Dolta, gia đình sẽ mời sư đến làm lễ tụng kinh, cúng bái).
Về phong tục cưới hỏi cũng có những nét riêng và giữ được nét văn hóa của dân tộc. Lễ cưới của người Khmer cũng trải qua các bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới; đồng bào vẫn giữ tục đưa rể sang nhà gái, sau hôn lễ chú rể sẽ sống bên gia đình vợ, và tùy vào điều kiện đôi trẻ có thể ra riêng sống gần đó hay chọn nơi khác. Giới thiệu hình ảnh; Trang phục cưới và trang sức đa dạng với nhiều màu sắc. Chú rể mặc xà rông, áo màu đỏ, xanh, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, tay dài, chú rể còn đeo con dao cưới bên hông với ý nghĩa bảo vệ cô dâu. Cô dâu trong ngày cưới sẽ mặc Sampol màu đỏ tím sẩm hoặc hồng cánh sen cùng với áo ngắn bó chẽn hoặc loại áo dài Tầm Pông màu đỏ, đội mũ Kpaal Plốp kiểu hình tháp nhọn nhiều tầng trang trí nhiều màu sắc, đính những hạt cườm lấp lánh thêu hoa giống như chiếc vương miện nhỏ xinh. Ngoài ra để tôn thêm nét đẹp dịu dàng nữ tính cho cô dâu trong ngày cưới thì không thể thiếu 1 chiếc khăn Sbay, cuốn chéo từ vai xuống bên sườn phải. Khăn sbay may bằng vải dệt kim màu vàng và được đính hàng ngàn hạt kim sa lấp lánh tạo nên hoa văn đa dạng đặc trưng của người Khmer. (Chỉ manơcanh mặc trang phục).
Bên cạnh trang phục cưới, người dân tộc ngày nay vẫn giữ được nét truyền thống được thể hiện qua trang phục đời thường và nếp sống. Trang phục truyền thống là áo tầm vong, xà rông cho những cụ ông, cụ bà cùng chiếc khăn rằn; với phụ nữ, thanh niên trang phục thời trang hơn với chiếc xampot (váy) cho nữ và quần âu cho nam, còn áo thường là áo sơ mi, áo chui đầu hay thun; ngày nay do sống cộng cư cùng đồng bào Kinh nên trang phục của người dân tộc ít nhiều thay đổi cho thuận lợi hơn trong sinh hoạt, còn trang phục truyền thống đa phần xuất hiện trong các dịp lễ, tết cổ truyền.
Về tín ngưỡng, tôn giáo: đồng bào Khmer cũng thờ cúng dân gian như thờ Neak Ta (hay còn gọi là Ông Tà); mang hàm ý cầu bình an cho phum sóc, cho vụ mùa tươi tốt, cho vạn vật điều hòa. Bên cạnh tín ngưỡng dân gian, đồng bào Khmercòn theo Phật giáo Tiểu thừa, hệ phái Nam tông. Tín đồ sùng kính đạo phật, kính trọng các tăng lữ, mọi sinh hoạt trong đời sống xã hội đều gắn liền với ngôi chùa. Giáo lý của họ là không tin vào thuyết luân hồi chuyển thế;do vậy, họ chỉ thờ duy nhất hình tượng Phật Thích ca và thêm vị sư trụ trì đã khuất tại chùa ở phum sóc. Mỗi thành viên trong gia đình khi sinh ra đều mặc nhiên là tín đồ Phật giáo Tiểu Thừa, và nam thanh niên đều thực hiện tu học tại chùa khi đến tuổi trưởng thành để báo hiếu cha mẹ theo luật tục (chỉ ảnh). Các vị sư Khmer sẽ luôn thực hiện đi khất thực, họ tin rằng việc này vừa mang ý nghĩ tu khổ hạnh rèn luyện đức tu vừa mong muốn chia sẻ điều lành đến với tín đồ, việc tín đồ dâng đồ cho các sư cũng mang hàm nghĩa như vậy(chỉ nội dung ảnh và thuyết minh hiện vật trưng bày).
Theo các nhà nghiên cứu, hơn thế kỷ trước trong điều kiện in ấn còn khó khăn sãi cả chùa đã khởi xướng chép lại kinh Phật trên lá. Hiện các chùa Khmer ở An Giang còn lưu giữ gần 1.000 quyển kinh lá (kinh lá buông), có giá trị to lớn về tinh thần và đặc biệt quý hiếm. Năm 2017, tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá buông của người Khmer ở huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Đối với đồng bào Khmer ngôi chùa là nơi thiêng liêng, vừa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng vừa là nơi sinh hoạt giáo dục cộng đồng, mọi việc trong đời sống từ học tập, tu thân, vui chơi,… đều gắn với nhà chùa; các hoạt động lễ tết, văn nghệ đều diễn ra tại chùa vừa mang yếu tố giải trí nhưng cũng tô đậm màu sắc tín ngưỡng huyền bí.
Với hoạt động văn hóa, lễ hội: Những điệu múa cổ truyền, những lễ nghi truyền thống góp phần làm đa dạng màu sắc văn hóa vùng miền của dân tộc. Với đồng bào Khmer An Giang, nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa đang được chú trọng để bảo lưu và giới thiệu rộng rãi như: trình tấu Chằm riêng Ch’pay, múa Dì kê ở xã Ô Lâm huyện Tri Tôn (Nghệ thuật Dì kê thì phần vũ đạo mới chính là yếu tố quan trọng còn lời ca đóng vai trò thứ yếu. Vì vậy nó gần với nghệ thuật hát bộ của người Việt hay Hồ Quảng của người Hoa hơn. Các tuồng tích của sân khấu dì kê thường được lấy từ các truyện cổ dân gian Khmer như Chuyện nàng Sêda, Thạch Sanh chém chằn, Chuyện chàng Tum nàng Tiêu... Phục vụ cho vở diễn ngoài các nhạc cụ dân tộc như đàn Trô-sô, đàn Trà Khê, đàn Khưm, đàn Pưn-pết, kèn Srolai Rôbăm... còn có các nhạc cụ điện tử khác đã được cải biên cho phù hợp với vở diễn. Những nhạc cụ này khi được tấu lên sẽ có một giai điệu khi thì vui tươi, rộn ràng, khi thì sâu lắng, bi ai nên có sự thu hút đặc biệt đối với người xem. Khi kết thúc đêm diễn, họ quay về trong tiếc nuối và hẹn gặp lại vào đêm sau để tiếp tục câu chuyện còn đang dở dang. Có nhiều tuồng tích phải diễn mấy đêm mới hết nhưng người xem vẫn không bỏ cuộc.
Bên cạnh ngày Tết Nguyên đán của cả nước, họ còn có những lễ hội rất riêng như: Tết cổ truyền của dân tộc, lễ cúng tổ tiên, cúng trăng, hay lễ thay áo mới cho nhà sư,…(giới thiệu hiện vật trưng bày). Ngoài ra hoạt động lễ hội của người Khmer còn nổi bật với hội đua bò truyền thống. Hội này được diễn ra sau lễ Dolta (lễ cúng ông bà), hiện đã được công nhận là lễ hội cấp quốc gia. Sân đua thường được chọn là mặt ruộng ngay sau chùa, từng cặp bò đua được các lão nông chăm sóc chu đáo và luyện tập thường xuyên; đây là hoạt động giải trí vui chơi sau một vụ mùa vất vả và để cổ vũ cho vụ mùa sau thuận lợi và thành công. Về nhạc khí, bên cạnh những nhạc cụ trưng bày bên Schla, thì nhạc cụ của dàn Ngũ âm cũng trở thành nét đặc sắc riêng biệt, lễ hội nào cũng không thể thiếu âm điệu trầm bổng du dương của bộ Ngũ âm.
Từ "Ngũ âm" được đề cập ở đây là năm loại chất liệu khác nhau tạo thành một âm thanh tổng hợp cho dàn nhạc, bao gồm: đồng, sắt, gỗ, da và hơi. Bộ dụng cụ của dàn nhạc ngũ âm gồm có: Rôneat Ek (Đàn thuyền), Rôneat Thung, Rônek Đek, Kôông Vông Tôch (Cồng lớn), Kôông Vông Thum, Skô Sam phô (Trống nhỏ), Skô Thum (Trống lớn), Kèn Salai…
Rôneat Ek là một nhạc khí được cấu tạo bằng gỗ (tre, bên, cẩm lai,..) có âm cao nhất và không thể vắng mặt trong tổ chức dàn nhạc ngũ âm, bởi nó đóng vai trò chủ lực về giai điệu diễn tấu trong dàn nhạc.
Rôneat Thung là một nhạc khí có cấu tạo từ chất liệu gỗ giống như Rôneat Ek nhưng tầm âm thấp hơn, trong dàn nhạc Rôneat Thung vừa được dùng diễn tấu giai điệu, vừa làm bè trầm cho Rôneat Ek và cả dàn nhạc.
Rônek Đek là nhạc khí có chất liệu làm ra từ sắt pha đồng. Âm thanh của đàn réo rắt, trong sáng như tiếng chuông ngân, được dùng diễn tấu giai điệu với các nhạc khí khác trong dàn nhạc.
Kôông Vông Tôch gồm có 16 chiếc cồng có núm đặt theo hình bán nguyệt, được chế tác từ chất liệu đồng thau hoặc đồng pha gang, mỗi chiếc cồng có núm dày, mỏng khác nhau. Nếu trong hoàn cảnh khách quan nào đó dàn nhạc ngũ âm có thể thiếu vắng một số nhạc khí, nhưng riêng Kôông Vông Tôch nhất thiết phải có mặt thì dàn nhạc mới hội đủ các điều kiện để có thể diễn tấu được theo quy định.
Skô Sam phô là loại trống hình ống, hai đầu được bịt bằng da bò hoặc da ngựa. Chức năng chính của Skô Sam phô thường được đánh mở đầu về tiết tấu và nhịp độ cho cả dàn nhạc, ngoài ra nó cò đóng vai trò dẫn dắt nhịp diệu trong suốt quá trình biểu diễn của dàn nhạc
Skô Thum là loại trống lớn, thường được sử dụng một cặp, một âm trầm, một âm bổng. Thân trống được làm bằng gỗ mít hoặc thốt nốt, mặt trống được bịt bằng da trâu, da bò. Skô Thum mở đầu cho dàn nhạc bằng hồi trống dài và sau đó giữ nhiệm vụ đệm tiết tấu cho dàn nhạc.
Kèn Salai là nhạc khí thổi hơi quý hiếm vì có kỹ thuật diễn tấu rất phức tạp, tinh tế. Kèn được làm từ các loại gỗ quý (thường bằng lõi gỗ Mun). Trong dàn nhạc Srolai Pin Peat có nhiệm vụ hòa thanh và làm cho màu sắc cả dàn nhạc nhạc trở nên hài hòa, êm dịu hơn.
Dàn nhạc ngũ âm của người Khmer đã có từ rất lâu đời, theo quy định cổ truyền thì dàn nhạc chỉ được sử dụng trong các ngày đại lễ tại chùa như: Lễ Cầu phước, Lễ dâng bông,... Vào những ngày lễ hội, hầu như bà con thức suốt đêm để vui chơi trong điệu Ram vông, À day hân hoan, rộn rã trong tiếng nhạc trầm trầm, vang vang như làm các nhịp múa càng thêm hăng say. Xuất phát từ nhu cầu cuộc sống xã hội, ngày nay nhạc ngũ âm đã được mở rộng phạm vi hoạt động trong các cuộc liên hoan mừng công và trình diễn trong các Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch vùng đồng bào Khmer. Cùng với các dân tộc Kinh, Hoa, Chăm cộng cư trên vùng đồng bằng Nam bộ, dân tộc Khmer đã kề vai sát cánh trong suốt quá trình gìn giữ và xây dựng đất nước. Nền văn hóa của dân tộc Khmer đã góp phần làm phong phú thêm cho văn hóa chung của các dân tộc trên đất nước Việt Nam.
Tác giả: admin
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
GIỜ THAM QUAN
Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần (Trừ thứ Hai).