Xin giới thiệu phòng trưng bày về nền văn hóa Óc Eo ở An Giang. Nền văn hóa này có niên đại từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII, cách nay khoảng 2000 năm. Ở đây chúng tôi xin giới thiệu về những di tích và di vật đã được tìm thấy trong các cuộc khai quật chủ yếu là sau ngày miền Nam hoàn toàn thống nhất. Qua những di tích và di vật đã thu thập được cho chúng ta thấy nơi đây vào thời kỳ văn hóa Óc Eo phát triển đã có nhiều công trình kiến trúc như: nhà cửa, đền đài, tường thành và những vật dụng trong sinh hoạt đời sống, những dụng cụ sản xuất. Đặc biệt là bộ sưu tập về vàng gồm tranh vẽ, chữ viết trên cổ vật vàng và những đồ trang sức rất phong phú và đặc sắc.
Văn hóa Óc Eo ở An Giang được nhà khảo cổ học người Pháp tên Malleret phát hiện vào năm 1942 tại di tích gò Óc Eo (xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn). Đến nay trên đất An Giang đã phát hiện ra hơn 20 địa điểm di tích thuộc nền văn hóa này. Trong vùng đất thấp “Tứ giác Long Xuyên” về mé bờ biển Hà Tiên, Rạch Giá tập trung nhiều di tích nhất (chỉ sơ đồ): Óc Eo - Ba Thê, Đá Nổi, Định Mỹ, Tráp Đá, Lò Mo, Núi Sam và Tri Tôn,… So với các vùng đất khác có thể nói An Giang là địa bàn phát triển nhất của nền văn hóa này. Trong phòng trưng bày này chúng tôi chỉ giới thiệu 2 khu di tích đặc trưng nhất và tiên biểu nhất là khu di tích Óc Eo - Ba Thê và khu di tích Đá Nổi - Phú Hòa, đồng thời giới thiệu thêm 3 điểm di tích được khai quật từ năm 1994 đến nay.
1. Đầu tiên xin được giới thiệu về khu di tích Óc Eo - Ba Thê. Đây là ảnh chụp toàn cảnh khu di tích. Khu di tích này được phát hiện vào năm 1942, khai quật 2 lần vào các năm 1944 và 1983; rộng trên 1000ha, chia làm 3 khu vực chính: sườn Đông Bắc, sườn Đông Nam núi Ba Thê và cánh đồng Giồng Cát, Giồng Xoài phía Đông núi Ba Thê.
Riêng khu di tích quanh Linh Sơn Tự, các nhà khảo cổ đã cho đào nhiều hố thám sát, hố thăm dò ở những độ sâu khác nhau và ở khoảng cách khá xa nhau, song đều tìm thấy dấu vết khảo cổ ở độ sâu từ 1,5 - 3m, đó là tường gạch cao trên 2m, sân gạch xây vuông vắn, bậc tam cấp, các mảnh gốm trang trí, ngói bản ngói ống… Những dấu tích này cho thấy nơi đây từng có nhiều công trình to lớn như nhà cửa, đền đài, tường thành… có thể nói đây là trung tâm quan trọng nhất của di tích Óc Eo - Ba Thê. Ngoài ra còn thu thập được các vật dụng bị vỡ như ly gốm có nắp đậy, mảnh lọ, vòi bình…
Ngoài nhóm di tích Linh Sơn Tự, trong khu di tích Óc Eo - Ba Thê còn có nhóm di tích lớn khác phân bố trên cánh đồng núi Ba Thê, đó là nhóm di tích Giồng Cát, Giồng Xoài. Di tích này rộng trên 400ha, gồm nhiều di chỉ: di tích kiến trúc đền đài gò Cây Thị, Gò Cát, Gò Cây Trôm, di chỉ mộ cổ, di chỉ cư trú trên cột gỗ nhà sàn dọc theo 2 bờ con lung lớn gọi là Lung Giếng Đá.
Sơ đồ kiến trúc gò Cây Trôm thể hiện bề mặt và mặt cắt, di tích này chỉ còn một nửa, một nửa đã bị đào phá. Di tích có diện tích 900m2; mặt trước là thềm gạch cao, phần trung tâm là nền gạch thấp, rộng, có hành lang bao quanh, phía sau là nền gạch hẹp. Di tích là một công trình kiến trúc kiên cố và độc đáo nằm trong cụm kiến trúc đền đài ở cánh đồng Giồng Cát. Quanh cụm di tích có nhiều gò nổi có quy mô nhỏ hơn là di chỉ mộ cổ, đã được khai quật vào năm 1983.
Đây là sơ đồ di chỉ mộ cổ Óc Eo A1 vẽ hình một ngôi mộ có cấu trúc bằng đá xếp thành hình kim tự tháp, có phần mộ và huyệt mộ dùng làm nơi cúng viếng. Đây là ngôi mộ tiêu biểu cho loại hình hỏa táng trong văn hóa Óc Eo.
Cư dân vương quốc Phù Nam đa số theo đạo Bà la môn, vật thờ của họ là linga-yoni – một biến thể của thần Shiva, vị thần có sức mạnh vô song. Linga-yoni là biểu tượng của âm dương giao hợp, của sự sinh tồn của loài người.
Sơ đồ mộ cổ A3 vẽ hình một ngôi mộ có cấu trúc đơn giản hơn và có những đặc trưng riêng. Đồ vật chôn theo là những vật dụng và di cốt xương động vật, theo phương pháp xác định C14: 1750±50, cách đây 1800 năm. Điều đáng lưu ý là ngôi mộ này không thấy chôn theo những đồ vật quý giá mà chỉ có những vật dụng
thông thường như nồi nấu kim loại, thỏi đất nung, chì lưới, di cốt xương trâu bò, gạc hươu nai, sừng hươu.
Ngoài 2 ngôi mộ trên xin giới thiệu ảnh chụp của các ngôi mộ khác đã được khai quật.
Nhìn chung những ngôi mộ này thuộc loại hình hỏa táng có kiến trúc trung tâm hình trụ, 4 cạnh bằng gạch hoặc đá khối, ở giữa có huyệt hoặc hộc rỗng lấp đầy đất cát, bên trên lấp đất, đá tạo thành gò nổi. Đồ vật chôn theo đặt dưới đáy hộc, chủ nhân những ngôi mộ là người theo đạo Bà la môn.
Đây là ảnh chụp toàn cảnh kiến trúc Gò Cây Thị, một công trình kiến trúc đẹp và còn khá nguyên vẹn đã được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng hai di tích kiến trúc A và B ở Gò Cây Thị là di tích khảo cổ theo Quyết định số 39/2002/QĐ-BVHTT ngày 30 tháng 12 năm 2002, và là 2 trong số các di tích thuộc di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo – Ba Thê được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2012, di tích đã được làm mái che kiên cố để bảo vệ.
Đồ gốm sinh hoạt trong văn hóa Óc Eo có xương đất mịn màu trắng ngà hoặc màu vàng nhạt: nắp đậy, ly có chân, vòi bình, mảnh cà ràng có trang trí văn thừng, văn chải, văn vạch vẽ và đồ án hình học,… thuộc truyền thống gốm tại chổ và chỉ thấy xuất hiện vào thời văn hóa Óc Eo. Đặc biệt là chì lưới và dọi xe chỉ bằng đất nung, cho thấy nghề đánh bắt thủy sản và dệt đã phát triển trong thời kỳ văn hóa Óc Eo.
Bên cạnh đồ gốm, trong văn hóa Óc Eo còn phát hiện các vật dụng bằng đá, các rìu đá thời nguyên thủy còn được bảo tồn ít ỏi trong nền văn hóa Óc Eo, các loại chày và bàn nghiền gia công nông lâm sản.
Tiếp theo giới thiệu đến quý khách các tượng thờ, vật thờ trong văn hóa Óc Eo. Tượng phật bằng đồng, tượng thần Genasha, nắm tay, đầu tượng thần, linga-yoni bằng đá và đất nung,…. Trong đạo Bà la môn, 3 vị thần được tôn thờ nhất là:
Theo triết học Ấn Độ, huỷ diệt là hành động tất yếu để đưa đến tái tạo, thần Shiva có ý nghĩa tốt đẹp. Shiva là vị thần có sức mạnh vô biên được tôn thờ nhất. Biến thể của thần Shiva là Linga-yoni. Ngoài tính chất tôn giáo, các bức tượng này còn thể hiện trình độ điêu khắc tinh vi, điêu luyện của cư dân cổ.
Đây là ảnh chụp các di tích đã được khai quật: kiến trúc Nam Linh Sơn tự, mộ chum, gò Đế, cọc gỗ, gò Cây Me, gò Út Nhanh, trong khoảng thời gian 1998-1999 - 2000. Bên cạnh đó là ảnh chụp công cuộc khai quật và thu thập hiện vật.
Bộ sưu tập phù điêu mặt người, mặt thú bằng đất nung.
Những hiện vật gốm cho ta thấy thêm về sự đa dạng trong sinh hoạt đời sống của cư dân Óc Eo như: chiếc dĩa đèn, nồi nấu kim loại, vật hình chóp, răng voi,… đồ gốm Óc Eo dùng trong sinh hoạt và tín ngưỡng.
Đây là phù điêu được chạm nổi hình Phật và hoa văn, đã cho thấy được sự khéo léo và kỳ công của cư dân cổ Óc Eo.
2. Khu di tích thứ hai chúng tôi xin giới thiệu là khu di tích Đá Nổi – Phú Hòa,
Khu di tích rộng trên 100ha, gồm 2 khu vực chính là di tích cư trú và di tích mộ cổ. Năm 1985, thông qua sự phát hiện của người dân, Viện Khoa học Xã hội Tp. Hồ Chí Minh và Bảo Tàng An Giang đã mở một đợt khai quật lớn, phát hiện ra 7 ngôi mộ có cấu trúc giống nhau phân bố trên vùng đất cao, xung quanh là vùng trũng ngập nước. Đây là ảnh chụp các ngôi mộ ở khu di tích đã được khai quật. Nhìn chung đây là những ngôi mộ hỏa táng có huyệt hình phễu, 4 cạnh có hộc rỗng lấp đầy đất cát, chung quanh chèn đá khối, phía trên không còn dấu tích của gò nổi.
Đồ vật chôn theo là những vật quý giá như vàng, nhẫn vàng, đá quý. Chủ nhân những ngôi mộ là người theo đạo Bà la môn.
(Giới thiệu: đây là ngôi mộ đã được phục nguyên)
Trong số 7 ngôi mộ thì tại ngôi mộ M2 phát hiện được 104 di vật chôn theo bao gồm các tranh vẽ trên lá vàng, lá vàng có chữ viết, bông hoa vàng, Linga-yoni bằng vàng.
Còn mộ cổ M4 thì có đến 165 di vật, có thể nói đây là lần tiên các nhà khảo cổ học thu thập được số lượng tranh vẽ trên lá vàng lớn nhất và phong phú nhất. Ngoài ra tại mộ cổ M4 còn phát hiện thêm những xây cất phụ bố trí hình chữ nhật có liên quan đến tổ chức cúng viếng của gia tộc chủ nhân ngôi mộ. Đây là một phong tục được ghi nhận trong di tích những ngôi mộ cổ ở Óc Eo.
Xin giới thiệu với đoàn đây là các tài liệu, ấn phẩm, báo cáo, chuyên khảo đã ghi nhận cụ thể các thành tựu khoa học của hội nghị văn hóa Óc Eo và các nền văn hóa cổ ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Đây là những hình họa trên cổ vật vàng, đề tài thể hiện là những hình tượng của đạo Bà la môn( rắn rùa, đạo sĩ, đinh ba lửa……) đây là những hình vẽ phong phú nhất, đặc sắc nhất và tinh mỹ nhất của nghệ thuật khắc họa trong văn hóa Óc Eo thế kỷ II-VII.
Những hình họa này đã cho chúng ta thêm những hiểu biết về phong cách nghệ thuật đồ họa độc đáo trên vàng cư dân Óc Eo, đồng thời còn cho thấy việc sử dụng thứ kim loại quý giá này là phổ biến trong cuộc sống của cư dân cổ Óc Eo. Sách cổ Ấn Độ thuở ấy cũng từng truyền tụng về vùng đất Nam Đông Dương, vùng đất giàu vàng lắm sản vật này. Cũng chính vì vậy mà vào thời kỳ văn hóa Óc Eo đã có không ít quý tộc, đạo sĩ, thương gia đi lại. Theo đó, văn minh Ấn Độ đã đến và hòa nhập vào đời sống của cư dân cổ Óc Eo.
3. Từ năm 1994 đến nay đã khai quật được 3 di tích khác đó là di tích Gò Cây Tung, di tích Hố thờ An Lợi và Tháp cổ An Lợi.
Di tích gò Cây Tung thuộc xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên, được khai quật năm 1994 - 1995. Bước đầu tìm thấy một di chỉ cư trú có tầng văn hóa khá dày và nhiều hiện vật. Trong lòng di tích này ở độ sâu 0,85 - 1,2m phát hiện được các di cốt mộ táng với tổng số là 25 mộ, các mộ điều được chôn trực tiếp xuống đất, không quan tài trong tư thế nằm ngửa chống chân. Di cốt đang được xác định để tìm niên đại.
Di tích Hố thờ An Lợi thuộc xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, khai quật năm 2001. Hố thờ là một di tích kiến trúc đẹp bằng gạch, được xây theo lối giật cấp (6 cấp) tạo thành hố sâu 2m7, rộng ở phía trên, hẹp dần xuống theo từng bậc. Ở bậc thứ hai từ trên xuống phát hiện ra tượng nữ thần Panati bằng đá, vợ thần Shiva, niên đại đoán định cuối thế kỷ II đầu thế kỷ VIII, hố thờ có niên đại từ thế kỷ thứ VIII - IX.
Tháp cổ An Lợi thuộc xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, được phát hiện và khai quật năm 2001. Theo các nhà khảo cổ thì tháp cổ An Lợi có thể là một kiến trúc có liên quan đến tín ngưỡng thần Shiva, nơi thực hiện các nghi lễ cầu phúc của các cư dân cổ. Đây là ảnh chụp tháp cổ An Lợi và các hiện vật khai quật được, bàn đá hình tròn và máng nước thiêng bằng đá.
Ngoài đạo Bà la môn thì cư dân cổ Óc Eo còn theo đạo Phật, các tín đồ sùng đạo không chỉ cho tạc tượng Phật bằng đá, đúc bằng đồng mà còn điêu khắc trên gỗ.
Trên thực tế thì nghề mộc đã khá phát triển trong thời kỳ văn hóa Óc Eo, được thể hiện qua loại hình cư trú trên nhà sàn, một hình thức sinh hoạt khá phổ biến trong đời sống của cư dân Óc Eo. Đây là cọc gỗ còn sót lại trên nhà sàn ở cánh đồng núi Chóc, cọc cao 3m - 3m2, được đẽo nhọn một đầu và có đục lỗ chốt. Cọc rất lớn và chắc chắn chứng tỏ nhà sàn có quy mô không nhỏ và rất kiên cố. Còn đây là chấn song lan can dùng trang trí trên nhà sàn Óc Eo, qua đó ta có thể thấy phần nào cấu trúc của nhà sàn Óc Eo.
Còn đây là những hiện vật được xem là tinh mỹ nhất, quý giá nhất được tìm thấy ở trong nền văn hóa Óc Eo đó là trang sức bằng vàng, hình chụp tranh vẽ trên lá vàng, hình tượng trong đạo Bà la môn, hạt chuỗi, con dấu bằng thạch anh…
Có thể nói nền văn hóa Óc Eo thực sự là một di sản văn hóa lớn, đánh dấu một giai đoạn lịch sử quan trọng của lớp người đầu tiên chinh phục vùng đất cực nam của tổ quốc. Nền văn hóa Óc Eo đã góp phần vào sự đa dạng của nền văn hóa ở nước ta.
Tác giả: admin
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
GIỜ THAM QUAN
Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần (Trừ thứ Hai).