Năm 1789, một vị sư ẩn cư không rõ pháp danh đến khu đất hoang sơ này dựng một cái am tạm bợ để tu hành. Sau khi vị sư này viên tịch, ba vị sư có pháp danh Hạ Cần, Hạ Thắng và Hạ Hưng lần lượt đến đây trụ trì. Các vị sư này qua đời thì vị sư có pháp danh Hạ Từ đến tu. Sư Hạ Từ được lòng phật tử nên họ đem tiền đóng góp xây dựng lại ngôi chùa bằng vật liệu kiên cố vào năm 1880. Sư Hạ Từ mất năm 1932. Sau sư Hạ Từ, sư Hạ Thông đến trụ trì, góp công xây dựng chánh điện khang trang. Thời gian này, hai gia đình phật tử Trùm Thịnh và Tồn Nguyên hiến đất mở rộng ngôi chùa. Sau sư Hạ Thông là sư Giác đến tu, vị này xây thêm phần hậu tổ có kích thước bằng chánh điện. Sư Giác mất năm 1940. Tiếp theo có sư Hạ Huệ người gốc Kiên Giang đến tu, vị này chỉnh trang lại hậu tổ và xây cất nhà khói.
Năm 1967, sư Hạ Huệ viên tịch giao lại hai vị ni cô tuổi già yếu trông coi nên chùa xuống cấp, các tượng phật bằng gỗ bị mối đụt khoét.
Năm 1982, sư cô Thích Nữ Như Quang về trụ trì, chùa được chăm nom bảo quản sạch đẹp, tươm tất.
Năm 2004, chùa được trùng tu xây dựng mới, tọa lạc trên diện tích 3.200m2, phần xây dựng chiếm 1.700m², gồm chánh điện, hậu tổ, nhà khói, nhà giảng, phòng khách. Khu vực sân có miếu Ngũ hành, miếu Thổ thần.
Chùa có cổng chính và cổng phụ. Cổng chính có mái che, mái đổ bê tông dán gạch giả ngói. Trụ cổng xây gạch vuông cạnh 40cm, đầu trụ cổng gắn hoa mai, đỉnh cổng gắn hoa sen, bảng cổng đắp nổi “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Chùa Đông Thạnh" chữ sơn màu vàng trên nền đỏ. Mặt trụ cổng có đôi liễn chữ Hán. Cổng phụ đơn giản hơn, không có mái che.
Sân chùa bày trí nhiều chậu hoa kiểng đặt xen kẻ với các tượng lộ thiên tạo nên phong cảnh huyền nhiệm chốn tôn nghiêm. Nổi bật nhất là tượng phật bà Quan Âm lộ thiên cao 7m cưỡi trên lưng rồng uốn lượn. Chân đế tượng hình bầu linh dược cao 2m, miệng bầu dạng hoa sen và mây. Giữa sân xây cột phướn bê tông cao 10m, phía trước xây 2 bệ thờ Thiên Hoàng và Địa Hoàng dán gạch men xanh. Trước mặt tiền chùa đặt tượng phật Thích Ca nhập niết bàn, chất liệu thạch cao sơn màu trắng dài 1m8.
Ngoài ra còn có hai mộ tháp của vị sư ông đời thứ nhất và thứ năm. Mộ cao, xây hình lục giác 3 tầng, đầu tháp gắn búp sen. Hai bên tháp xây miếu Thần Nông và Thổ Thần, vách các miếu xây gạch, nền lót gạch men, mái đổ bê tông. Mặt trước miếu đắp nổi chữ Hán, chữ sơn vàng nền sơn đỏ. Sau miếu thần Nông là miếu Ngũ hành, Vạn Ban và Thất vị nương nương. Bên hông miếu là khu vườn Lâm Tì Ni, nhiều tượng phật và bồ tát được bố trí theo điển tích phật. Tiếp sau là nhà Vãng sanh đường, vách xây gạch, nền lót gạch men. Ngoài ra còn các công trình phụ phục vụ cho tăng ni sinh hoạt.
Bên hông chùa là nhà khách chiếm diện tích 108m². Nhà khách có 2 tầng, nền lót gạch men, vách xây gạch, mái lợp tol. Nối tiếp nhà khách là giảng đường, thuyết giảng phật pháp.
Công trình chính gồm chính điện và hậu tổ, kiểu dáng 2 mái bát dần, lợp ngói vảy cá. Nóc chính điện xây khung bao vuông hình trụ, gắn hoa văn hình mỏ neo, ở mỗi đầu kỳ góc mái gắn rồng cách điệu. Nội thất chính điện có 4 hàng cột gỗ vuông (16 cột), cạnh 20cm, tứ trụ chính điện đổ bê tông, dạng tròn đường kính 20cm, vẽ hình rồng lượn trong mây. Hậu tổ kiểu ba gian hai chái, mái bát dần. Ở vị trí trung tâm hậu tổ treo ảnh Tổ sư Đạt Ma. Trước bàn thờ tổ gắn bộ bao lam thành vọng bằng gỗ trang trí chim muôn, hoa lá cuốn thư. Trên bao lam treo bức hoành phi bằng gỗ chạm cuốn thư khắc chữ “Phương Lưu Diệp Ngũ". Viền cuốn thư chạm nổi lưỡng long tranh châu, tứ linh và hoa lá. Các cột giữa hậu tổ treo 3 đôi liễn gỗ dạng phẳng, các Hán tự được khắc chìm, sơn son thếp vàng trên nền đỏ.
Góc phải hậu tổ đặt tủ thờ cẩn ốc xà cừ và tủ sách kinh. Trước bàn thờ tổ là nghi thờ phật Chuẩn Đề, bên phải là bàn thờ phật Di Đà, bên trái thờ phật Quan Thế Âm. Chùa Đông Thạnh thuộc hệ phái Bắc tông, thờ chính phật A Di Đà. Ngoài ra còn thờ Ngọc Hoàng, Quan Thế Âm Bồ Tát.
Các lễ chính trong năm:
- Lễ húy kỵ hòa thượng Quảng Huệ: 10/11 âm lịch.
- Vía Quan Âm: 19/02 và 19/6 âm lịch.
- Lễ Phật Đản: 15/4 âm lịch.
- Lễ húy kỵ hòa thượng Trí Thông: 09, 10/7 âm lịch.
- Vía Di Đà: 17/11 âm lịch.
- Lệ Tam nguyên.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa là cơ sở cách mạng. Hai sư Hạ Thông và Hạ Huệ hoạt động cách mạng ở Chùa Tam Bảo, Hà Tiên bị lộ nên về chùa Đông Thạnh tu và tiếp tục hoạt động cách mạng. Chùa là nơi nuôi chứa cán bộ cách mạng, hội họp và cất giấu tài liệu. Năm 1946, sư ông Quảng Huệ trực tiếp trao lá cờ Đảng cho một đệ tử tên là Nguyễn Văn Ngâu treo ở ngọn cây sao trước chùa và giao nhiều tài liệu truyền đơn cho đệ tử làm và chạy xe ngựa mang đi rãi khắp nơi. Chùa bị giặc bắn pháo vào làm hư hại, cháy một ngọn sao. Ông Võ Thành Hưng cán bộ trực tiếp trú ấn ở chùa đã có lần ôm tài liệu ẩn giấu trong tượng Phật Di Đà khi bị địch lùng bắt.
Chùa Đông Thạnh nằm trong phạm vi phường Long Xuyên, nơi có cảnh quan thoáng mát, còn lưu giữ được 16 hiện vật tượng gỗ có giá trị nghệ thuật cao. Kết hợp giữa kiến trúc đẹp và lịch sử đấu tranh cách mạng, chùa Đông Thạnh là niềm tự hào của người dân địa phương. Chùa được Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang xếp hạng là di tích lịch sử cách mạng và kiến trúc nghệ thuật theo Quyết định số: 2335/2002/QĐ-UB ngày 01/10/2002./.
Tác giả: admin
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
GIỜ THAM QUAN
Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần (Trừ thứ Hai).