Di tích lịch sử kênh Vĩnh Tế

Chủ nhật - 25/05/2025 04:25

 

Kênh Vĩnh Tế khởi công đào ngày 15 tháng Chạp, năm Kỷ Mão (1819), được thực hiện dưới triều vua Gia Long và Minh Mạng. Kênh Vĩnh Tế được đào thủ công bằng sức người, với công cụ thô sơ trong khoảng thời gian 5 năm (1819-1824), nhưng thực tế nhiều lần bị hoãn lại, chỉ triển khai trong 3 năm (1820, 1823, 1824). Mỗi năm đào một đợt, mỗi đợt chỉ đào từ 3 đến 4 tháng. Tổng thời gian đào đắp kênh Vĩnh Tế chỉ khoảng 10 đến 11 tháng.

Kênh Vĩnh Tế được đào với chiều dài khoảng 205 dặm rưỡi (tương đương 91km; trừ những đoạn sông rạch sẵn có, phần kênh phải đào mới là 37 km). Kênh rộng 7 trượng 5 thước (tương đương 25m), sâu 6 thước (tương đương 3m). Đợt đầu, kênh Vĩnh Tế được thực hiện dưới sự chỉ huy của Trấn thủ Vĩnh Thanh Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại, cùng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên, Điều bát Nguyễn Văn Tồn. Đợt thứ hai được thực hiện dưới sự chỉ huy của Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt, Phó tổng trấn Trương Tấn Bửu. Đợt thứ ba được thực hiện dưới sự chỉ huy của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng, Thống chế Trần Công Lại góp sức.

Theo yêu cầu của triều đình nhà Nguyễn kênh Vĩnh Tế phải được đào thẳng, qua các vùng đất mới, phong thổ khắc nghiệt, gặp nhiều khó khăn. Các quan phụ trách đã phải huy động đến hơn 80.000 nhân công (dân binh), gồm dân binh ở các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh, ĐịnhTường và nhiều dân binh người Việt và người Chân Lạp. Toàn bộ chủ trương, tổ chức kế hoạch, cơ sở vật chất, hậu cần, tiền công, lương thực, thực phẩm… đều được cung cấp từ quốc khố của triều đình nhà Nguyễn.

Kênh Vĩnh Tế là một công trình quan trọng, có giá trị to lớn về mặt kinh tế, chính trị, quân sự, đặc biệt là trong quan hệ quốc tế. Kênh bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc thuộc phường Châu Đốc, tỉnh An Giang song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia, điểm cuối của kênh nối giáp với ngã ba sông Giang Thành, thuộc địa phận xã Giang Thành. Sông Giang Thành tiếp tục chảy qua địa phận phường Hà Tiên và đổ ra biển với tổng chiều dài kênh khoảng 91km, rộng 25m, sâu 3m.

Giá trị lịch sử của di tích: sự ra đời của kênh Vĩnh Tế (năm 1824) là bước đi rất quan trọng trong chiến lược phòng thủ biên giới Tây Nam của triều Nguyễn. Kênh Vĩnh Tế luôn là một biểu tượng hào hùng ở miền Tây về một thời mở đất, lập làng gắn liền với bao công lao, xương máu của tiền nhân trong sự nghiệp giữ đất, bảo vệ chủ quyền miền biên viễn Tây Nam Tổ quốc. Kênh Vĩnh Tế được thực hiện trong công cuộc mở cõi và định cõi của dân tộc Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn lịch sử có đến gần hai thiên niên kỷ, như là một chứng nhân của thời đại, chứng kiến, ghi nhận biết bao sự kiện lịch sử đã diễn ra, từ việc đưa dòng nước ngọt Hậu Giang chảy ra Biển Tây để tạo nên những cánh đồng phì nhiêu với các làng mạc, đô thị trù phú, cho đến những chiến công hiển hách, những hy sinh mất mát, đau thương... qua các cuộc chiến tranh vệ quốc vinh quang của dân tộc. Kênh Vĩnh Tế xác lập chủ quyền bờ cõi, bảo đảm an ninh, quốc phòng của Tổ quốc; tạo thành hành lang chiến lược đảm bảo sự thống nhất không gian chiến lược từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Dọc theo kênh Vĩnh Tế, ngoài các thôn làng đã hình thành trước từ thời Thoại Ngọc Hầu trấn nhậm, các đồn, bảo, thủ, lũy cũng lần lượt được dựng lên làm chỗ dựa cho quan binh nhà Nguyễn trấn giữ chống lại các cuộc xâm lấn của quân Xiêm, Chân Lạp...

Trong kháng chiến chống Pháp, kênh Vĩnh Tế có vai trò cầu nối giữa chiến trường Đông Nam Campuchia với chiến trường Miền Tây Nam Bộ phá vỡ chiến lược phong tỏa biên giới của địch. Trong thời kỳ ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, kênh Vĩnh Tế là đầu cầu chiến lược cho sự chi viện nhân lực, vật lực của Trung ương về khu Tây Nam Bộ. Trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, làng mạc cặp theo kinh Vĩnh Tế dù bị tàn phá nặng nề nhưng quân dân VN vẫn cố bám giữ đất, dựng phòng tuyến phản công địch, giành chiến thắng.

Giá trị văn hóa của di tích: Đi liền với sự phát triển của đời sống về kinh tế - xã hội, thì đời sống văn hóa tinh thần cũng lần lượt được phát triển. Từ khi bắt đầu đào kênh Vĩnh Tế năm 1819 cho đến năm 1836, tổng cộng có 18 thôn được thành lập dọc kênh Vĩnh Tế và 2 thôn thành lập trong vùng Bảy Núi. Đó là một kết quả rất ấn tượng trong công cuộc khẩn hoang của người Việt. Theo đó, nơi nào có dân cư tụ thành xóm làng thì nơi đó các thiết chế văn hóa cũng dần hình thành.

Kênh Vĩnh Tế đã góp phần cải tạo môi trường tự nhiên hoang dã bao đời thành vùng đất canh tác, từ đó kiến tạo không gian định cư ổn định lâu dài; xây dựng các tổ chức hành chính, phát triển đời sống kinh tế, xã hội... Kênh Vĩnh Tế đã tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế vùng, liên vùng đưa Châu Đốc từ một cứ điểm quân sự từng bước trở thành khu kinh tế đầu mối cho Hà Tiên, Chân Lạp, Vĩnh Thanh, Gia Định... Dọc theo kênh Vĩnh Tế còn lưu giữ bao dấu tích lịch sử, văn hóa với các kiến trúc, địa danh... tồn tại theo dòng chảy 200 năm như đình Vĩnh Ngươn (ở ngay đầu kênh), đình Vĩnh Tế, cụm di tích Núi Sam, chùa Bồng Lai (chùa Bà Bài), Núi Két, chốt thép Nhơn Hưng, Ba Chúc, địa điểm chiến thắng cầu sắt Vĩnh Thông, Giang Thành – Đông Hồ... góp phần hình thành nên môi trường văn hóa đa dạng, dung hợp của cả hai loại hình văn hóa vật thể và phi vật thể. Kênh Vĩnh Tế đã trở thành dòng sông thiêng, dòng sông mẹ, dòng chảy chủ đạo, trục trung tâm của mọi hoạt động giao thông, thủy lợi mở rộng khai thác đất đai vùng Tứ giác.

Giá trị khoa học của di tích: Công trình kênh đào Vĩnh Tế là công trình thủ công khu vực biên giới dài nhất Việt Nam, là minh chứng hùng hồn cho sự sáng tạo, tài tình của người Việt chinh phục thiên nhiên. Kênh Vĩnh Tế là kênh đào lớn nhất và là công trình thủy lợi quan trọng nhất của triều Nguyễn ở vùng đất Tây Nam bộ vào đầu thế kỷ 19. Kênh Vĩnh Tế nối liền 2 trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của vương triều Nguyễn, trải từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Đây là công trình quy mô nhất thời Nguyễn, phát huy được vai trò và lợi ích to lớn trong lĩnh vực kinh tế, bang giao và quốc phòng trên vùng Tây Nam biên viễn.

* Bên cạnh các giá trị đáp ứng các tiêu chí xếp hạng di tích được quy định trong Luật Di sản văn hóa, kênh Vĩnh Tế còn chứa đựng các giá trị tiêu biểu sau:

- Về quốc phòng, an ninh:

Các quyết sách của vua Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị khi cho tiến hành đào kênh Vĩnh Tế, kênh Thoại Hà, kênh Vĩnh An, nạo vét và cải tạo kênh Bảo Định... đã phản ánh nhãn quan chính trị sắc bén và quyết tâm sắt đá của triều đình Nguyễn đối với vấn đề chủ quyền và an ninh, trật tự ở vùng biên cương Tây Nam.

Việc khai hoang, lập ấp, đào kênh, khơi sông là yếu tố quyết định trong việc xác lập và thực thi chủ quyền quốc gia. Các biện pháp kết hợp giữa phòng thủ, phát triển giao thông thủy bộ, đẩy mạnh khẩn hoang và mộ dân lập làng, phát triển nông nghiệp, mở rộng giao thương buôn bán của các vị vua triều Nguyễn là một chủ trương đúng đắn, góp phần tạo nên sự vững chắc và ổn định lâu dài vùng đất mới.

Việc đào kênh Vĩnh Tế không những ổn định tình hình biên giới, xác định chủ quyền lãnh thổ Đại Nam mà còn phát huy được vai trò và lợi ích to lớn đối với chính trị, quốc phòng, an ninh miền biên viễn. Dòng kênh Vĩnh Tế đã trở thành một chiến hào tự nhiên dọc suốt chiều dài vùng Tây Nam từ Châu Đốc đến Hà Tiên, minh chứng bằng chiến thắng đánh bại quân Xiêm, Chân Lạp trong thế kỷ XIX; Đến thế kỷ thứ XX, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kênh Vĩnh Tế là đầu cầu chiến lược để chuyển quân, tải vũ khí chi viện cho chiến trường miền Tây Nam Bộ; Đến khi chiến tranh biên giới Tây Nam, kênh Vĩnh Tế một lần nữa trở thành hệ thống phòng thủ quan trọng, ngăn chặn và đẩy lùi toàn bộ cánh quân của địch về phía bên kia biên giới, giữ gìn từng tấc đất linh thiêng của tổ quốc.

Về giá trị kinh tế: Lúc đầu, mục đích chính của việc đào kênh là để phục vụ giao thông đường thủy và đảm bảo an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, việc đào xong con kênh Vĩnh Tế nối liền Châu Đốc và Hà Tiên được coi là thành quả vĩ đại, có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế. Nó không chỉ là một đường thủy lưu thông bằng thuyền đi lại buôn bán giữa các các địa phương thuộc đồng bằng sông Cửu Long, nó còn có tác dụng quan trọng khác nữa là đưa nước ngọt từ sông Hậu chảy qua kênh Vĩnh Tế, góp phần tháo chua rửa phèn, đất dần được ngọt hóa, tạo điều kiệnthuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng lúa và quy tụ lưu dân đến sinh cơ lập nghiệp, xây dựng thôn ấp, đem lại sự trù phú cho một vùng đất xa xôi, hoang hóa nhưng lại đầy tiềm năng.

Kênh Vĩnh Tế là kênh chính có tác dụng phát triển vùng Tứ giác Long Xuyên. Việc đào kênh Vĩnh Tế đã phản ánh là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm cải tạo tự nhiên, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tạo ra hình thái mới đặc trưng của nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời, việc đào kênh Vĩnh Tế nói riêng và ở Nam Bộ nói chung đã phản ánh được tầm nhìn vĩ mô của các vị vua triều Nguyễn đối với vùng đồng bằng mang tính chiến lược về hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Với những giá trị tiêu biểu như trên, ngày 22/01/2025, kênh Vĩnh Tế được Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 102/QĐ-UBND./.

Tác giả: admin

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

GIỜ THAM QUAN
Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần (Trừ thứ Hai).

Thống kê truy cập
  • Trực tuyến11
  • Hôm nay690
  • Tháng hiện tại9,662
  • Tổng cộng123,320
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi