Đình Vĩnh Tế là công trình kiến trúc cổ nằm trong cụm di tích danh thắng núi Sam. Đình được xây dựng từ những năm đầu giữa thế kỷ XIX. Lần đầu tiên, đình được xây dựng tại chân núi Sam bằng vật liệu đơn sơ, sau dời lên địa điểm hiện nay cách vị trí cũ 50m. Đây là lần trùng tu toàn diện nên đình có được kết cấu hoàn chỉnh và khang trang như hiện nay.
Đình Vĩnh Tế bao gồm: Chính điện, vỏ qui, Đông lang, Tây lang. Ngoài ra còn có cổng và hàng rào. Sân đình có các miếu thờ Thần nông, Bạch mã - Thái giám, Ngũ hành và Sơn quân. Tất cả tạo nên một tổng thể kiến trúc cân đối hài hòa. phù hợp với nét cổ kính của cảnh quan di tích.
Đình được vua Khải Định ban sắc phong vào năm 1923. Đình chính được xây dựng trên triền núi với diện tích gần 2.000m2. Nền đình được tôn cao 60cm, xây viền đá núi, lót gạch tàu. Cột bằng gỗ căm xe dạng tròn. Vách tường được xây bằng đá trộn và tô hồ vôi ô dước. Đình chính có 2 bộ nóc, mái lợp ngói đại ống. Đầu các mái gắn diềm ngói hình đồng tiền tròn và hình lá. Chính điện ba cấp mái nóc cổ lầu, vỏ qui hai cấp. Bờ nóc gắn lưỡng long tranh châu, bát tiên. Các đầu kìm góc mái gắn cá hóa long, kỳ lân, vòm mây,… Mặt dựng hai bên hông và mảng giữa hai cấp mái đắp nổi phù điêu dơi ngậm đồng tiền, phong cảnh làng quê sông nước thanh bình. Tứ trụ đại điện cao tạo thông thoáng cho các cấp mái đưa ánh sáng vào không gian nội thất. Các kèo đâm nối cột chính và cột hàng nhì tạo cấp mái giữa các kèo quyết nối cột hàng nhì ra mảng vách. Đầu dư của các kèo được chạm khắc các đường chỉ, hoa văn sóng nước, mây, dây hoa lá cách điệu làm tăng giá trị mỹ thuật cho khung sườn.
Hệ thống các xiên thượng, xiên hạ đóng vai trò gắn kết giữa xiên và cột, cột với kèo tạo thế bền vững của khung sườn, đủ sức chịu lực đối với toàn bộ các mái ngói.
Đình có 4 hàng cột gỗ theo chiều ngang, 8 hàng theo chiều dọc. Từng chân cột được kê trên tán đế bằng đá xanh chạm các khớp, đường thẳng và hình tròn ngộ nghĩnh làm đẹp cho chân cột và không bị thấm nước.
Nội thất đình Vĩnh Tế được trình bày đẹp mắt bởi hệ thống các tác phẩm nghệ thuật, các bộ bao lam thành vọng, hoành phi, liễn đối. Thân cột được trang trí liễn gỗ dạng phẳng hay dạng ốp cột. Đầu và chân liễn được gắn các bức chạm hình bầu hay cuốn thư. Các bộ bao lam thành vọng được chạm lộng sắc xảo các chủ đề tứ linh, tứ quí,.. Các Hán tự và dây hoa lá trên các bức hoành phi được chạm nổi. Các khánh thờ được chạm khắc cầu kỳ các loài chim thú quí, hoa thiêng cỏ lạ. Mỗi tác phẩm nghệ thuật dù chạm hay khắc đều được sơn son thếp vàng, vừa khẳng định giá trị thẩm mỹ trong kỹ thuật chế tác vừa tạo nét uy nghiêm cho không gian thờ tự.
Việc bố trí bàn thờ và vật thờ trong đình thể hiện sự phân cấp thứ bậc chức sắc trong xã hội phong kiến. Nghi chính thờ thần Thoại Ngọc Hầu được đặt nơi tôn nghiêm nhất ở đại điện. Các đồ vật thờ có giá trị cao về nghệ thuật và lịch sử như khánh thần, long vị, long đăng, chò quả,... Hai bên bàn thờ Thoại Ngọc Hầu là bàn thờ Tả ban và Hữu ban. Hai vách hông đặt các bàn thờ Tiền hiền - Hậu hiền, Tiền hương chức - Hậu hương chức,... hầu hết các bàn thờ cố (13 bàn) được làm theo kiểu chân quì, thân bàn chạm lộng hay chạm nổi cẩn óc xà cừ nhiều màu sắc lấp lánh.
Các tranh sơn thủy trên cổ viêm, mặt dựng giữa hai cấp mái bên trong và ngoài ngôi đình thể hiện nội dung phong phú diễn tả cảnh vật quê hương, các loài chim thú, hoa lá tứ thời gợi nhớ về kỷ niệm xưa.
Các Hán tự được sử dụng trên các bàn thờ, miếu thờ, hoành phi, liễn đối, long vị, sắc thần,.… Có giá trị điển hình cho nền triết học Đông phương đã tồn tại từ thời đại phong kiến đến nay. Đó cũng là di sản văn hóa của dân tộc còn sót lại và được lưu giữ tại vùng biên này.
Thoại Ngọc Hầu, vị tướng giỏi và trung thành với chúa Nguyễn, có công lớn trong việc khai mở và bảo vệ vùng đất mới An Giang. Ngoài việc đào kinh Vĩnh Tế, đắp đường ông còn lập được nhiều làng ở An Giang tạo điều kiện cho cư dân phát triển. Năm Minh Mạng thứ 10 (1829) ông bị bệnh và thất lộc tử tại Châu Đốc vào ngày 6/6 năm Kỷ Sửu (1829) hưởng thọ 68 tuổi. Hiện tại, ngôi mộ ông được gìn giữ nguyên vẹn tại khu sơn lăng núi Sam. Ngày 18/8 năm Kỷ Sửu 1829, Thoại Ngọc Hầu được vua Minh Mạng phong sắc là vị Thần được thờ tại đình Vĩnh Tế. Ghi nhớ sự kiện vinh dự ấy còn lưu qua hai câu liễn tại đình Vĩnh Tế.
“Hiển ngã hồng oai công tại biên thùy danh tại sử
Tấn thanh man cảnh sanh vi tướng sối, tử vi thần".
Đình Vĩnh Tế được vua Khải Định ban sắc phong thần cho Thoại Ngọc Hầu ngày 25/7/1923
Các lễ chính trong năm:
- Kỳ yên: Ngày 14, 15, 16 tháng 8 âm lịch.
- Lạp miếu: Ngày 25 tháng 12 âm lịch.
Hình thành trên 150 năm, đình Vĩnh Tế trải qua bao thăng trầm lịch sử, nhiều lần được trùng tu sửa chữa nhưng vẫn giữ được nét cố kính vốn có. Điều đáng trân trọng là qua các giai đoạn hình thành và phát triển, đình Vĩnh Tế được các cấp chính quyền, Ban Quản trị Lăng Miếu núi Sam cùng nhân dân địa phương ý thức giữ gìn, chăm sóc tốt cho ngôi đình. Hàng năm, được sự phối hợp của các cấp chính quyền, các ngành, lễ hội đã diễn ra đúng thời gian trong không khí trang nghiêm và long trọng theo nghi thức truyền thống của đình làng Nam Bộ.
Đình Vĩnh Tế được Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật theo Quyết định số: 1249/QĐ-CT.UB ngày 21 tháng 5 năm 2002./.
Tác giả: admin
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
GIỜ THAM QUAN
Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần (Trừ thứ Hai).