Di tích lịch sử Vệ Thủy Thần Miếu

Chủ nhật - 25/05/2025 04:23

 

Tên gọi Vệ Thủy xuất phát từ tên gọi của “Vệ Thủy binh”, lực lượng bảo vệ đường thủy vào thời nhà Nguyễn. Miếu tôn thờ hai vị thần là: Chánh, Phó Đội trưởng Vệ Thủy binh Đỗ Đăng Tào và Lê Văn Sanh, do vậy, mới có tên gọi là Vệ Thủy thần miếu. Ngoài ra, di tích còn các tên gọi khác như: Miếu thần Vệ Thủy, miếu Vệ Thủy, Vệ Thủy miếu hay miếu Ông Vệ.

Vệ Thủy thần miếu là cơ sở tín ngưỡng tôn thờ hai nhân vật lịch sử Đỗ Đăng Tào và Lê Văn Sanh. Đỗ Đăng Tào và Lê Văn Sanh là hai người giỏi võ nghệ, sớm đầu quân cho triều đình nhà Nguyễn để bảo vệ cuộc sống bình yên cho người dân vùng biên giới. Trong chiến tranh, hai ông đã dũng cảm chiến đấu, lập nhiều chiến công và trong thời bình, hai ông luôn mẫn cán làm nhiều việc hữu ích cho dân. Đặc biệt, khi Pháp xâm lược, hai ông vẫn kiên quyết chống Pháp đến cùng, tìm đủ mọi cách đến khi không còn sức lực mới chịu sống âm thầm đến cuối đời.

Ông Đỗ Đăng Tào tham gia quân đội nhà Nguyễn từ năm 1824 (triều đại Minh Mạng). Ông giữ chức Chánh Đội trưởng Suất đội, thuộc đội 3, cơ An Bình, binh dõng An Giang. Ông phụ trách thủy binh tuần tiễu trên sông Châu Đốc. Trong năm 1824, giặc thổ phỉ đến vùng biên giới Thất Sơn và đầu nguồn sông Hậu – Châu Đốc để cướp phá, ông đã chỉ huy binh lính đánh lùi được giặc thổ phỉ. Năm 1834, đời vua Minh Mạng thứ 15, ông được bổ hàm Ngoại úy Phó suất cơ, cơ An Ngãi trật tòng tứ phẩm, chức vụ Chánh đội trưởng Vệ Thủy binh. Năm 1848, đời vua Tự Đức nguyên niên, Đỗ Đăng Tào nhận thêm một sắc phong, được bổ chức Thự Quản cơ.

Ông Lê Văn Sanh cũng tham gia quân đội nhà Nguyễn nhưng sau Đỗ Đăng Tào nhiều năm. Ông đã cùng Đỗ Đăng Tào chuyển sang thủy binh, tham gia các cuộc chiến tiễu trừ giặc giả ở vùng Thất Sơn và chống quân xâm lược Xiêm La. Với nhiều công trận, năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), Lê Văn Sanh được sắc chỉ phong làm Đội trưởng suất đội. Năm 1856, Lê Văn Sanh tham gia kỳ sát hạch trong quân ngũ, đạt hạng bình nên được sắc chỉ thứ hai, bổ làm Cai đội. Đến năm 1863, ông được sắc chỉ phong chức vụ Bang biện Phó Quản cơ.

Trong những năm 1847 đến năm 1867, hai ông tổ chức canh giữ biên giới, phòng trừ thổ phỉ xâm nhập, bảo vệ an ninh cho dân vùng biên thuỳ được bình yên. Để có nơi cho thuyền bè của đội thủy binh có thể vào trú ẩn, mai phục và dẫn nước vào ruộng, hai ông đã đề xuất với Tổng đốc An Hà cho đào vét lối mòn voi đi trở thành con mương khá sâu, dài khoảng 1,5km. Nhân dân Châu Đốc gọi tên con mương đó là mương Vệ Thủy (ngày nay con mương đã cạn vì bị bồi lắng, nơi đây hình thành địa danh là Mương Thủy). Hai ông còn tổ chức khai hoang đất đai hai bên bờ mương, khoảng 200 ha nay thuộc phường Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc ngày nay.

Ngày 22 tháng 6 năm 1867, khi tàu chiến Pháp đến uy hiếp thành An Giang (ở Châu Đốc) đồng thời đưa thư kêu gọi đầu hàng của Kinh lược sứ Phan Thanh Giản, sau một hồi do dự Tổng đốc Nguyễn Hữu Cơ và các quan Bố chính, Án sát, Lãnh binh đã mở cửa thành đầu hàng. Không cam tâm đầu hàng Pháp, Chánh Vệ thủy Đỗ Đăng Tào và Phó Vệ thủy Lê Văn Sanh đã đem toàn bộ tàu thuyền của đơn vị thủy binh do hai ông cai quản, mai phục ở mương Vệ Thủy chờ thời cơ phục kích tàu Pháp. Theo truyền khẩu dân gian, hai ông cho giăng dây ngang sông Hậu để cản tàu Pháp và tổ chức đội cảm tử quân lặn sâu dưới nước để đục thủng tàu... Nhưng do quá chênh lệch về lực lượng và vũ khí, tất cả kế hoạch của hai ông đều thất bại. Cuối cùng, hai ông đành cho nhấn chìm và hủy tất cả tàu thuyền, vũ khí xuống mương Vệ Thủy rồi rút về vùng Láng Linh - Bảy Thưa.

Theo lời kể của các vị lão niên, khoảng những năm 1890, sau khi được tin Đỗ Đăng Tào và Lê Văn Sanh mất một thời gian thì miếu được dựng lên. Nhiều người dân vì tưởng nhớ đến hai ông mà mang cây gỗ tạp, lá… dựng nên ngôi miếu với nền đất, vách lá đơn sơ, chủ yếu là để có nơi cúng bái, tưởng nhớ đến công trạng của hai ông. Trải qua bao thời gian mưa nắng, thiên tai, chiến tranh loạn lạc, ngôi miếu nhiều lần được dựng lại cũng bằng cây lá, nền đất đơn sơ.

Đến ngày 15/7/1953, ông Đinh Văn Học (còn gọi là ông chủ Học) và ông Lê Công Hội đã vận động tiền bạc, sưu tầm sắc ấn và hợp cùng các ông Hứa Văn Cao, Nguyễn Văn Bánh, Lâm Văn Hoa, Nguyễn Văn Quốc, Nguyễn Bá Vạn, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Sẹo, Nguyễn Văn Phó, Phạm Văn Tri, Nguyễn Văn Thà, Nguyễn Văn Đủ, Nguyễn Văn Chờ, Hứa Văn Sụa,…và rất nhiều bà con quanh vùng xây cất lại ngôi miếu bên hữu ngạn vàm mương Vệ Thủy, ngay trên phần đất hiến tặng của ông Nguyễn Văn Xề.

Ngôi miếu được xây dựng với lối kiến trúc dân gian gồm 3 gian 2 chái, bố cục gồm: chánh điện và võ ca, mái lợp ngói âm dương và nền lót gạch tàu,…

Năm 2000, miếu được sửa chữa một lần nữa, chủ yếu là tu bổ cho một số hạng mục đã xuống cấp, chống dột ở chánh điện. Năm 2013, Ban Quản trị kêu gọi đầu tư, xây dựng lại miếu theo lối kiến trúc cũ nhưng được mở rộng cả chiều ngang và chiều dài, gồm đầy đủ 3 hạng mục công trình: Võ ca, võ qui và chánh điện và một số công trình phụ trợ khác. Mặt chính diện di tích theo hướng Đông - Nam nhìn ra bờ sông Hậu. Mái lợp ngói âm dương. Đỉnh nóc trang trí tượng lưỡng long, hổ phù bằng sành sứ tráng men. Các đầu gờ góc mái gắn biểu tượng hoa văn hình học. Hệ thống khung sườn chịu lực là sự kết hợp giữa cột, kèo chất liệu bê tông cốt thép; Đòn tay, rui mè bằng gỗ. Trang trí nội thất hài hòa, toát lên vẻ tôn nghiêm chốn thờ tự. Các cuốn thư, hoành phi, liễn đối, phù điêu được khắc chạm tỉ mỉ và bố trí ở những vị trí trọng tâm, nội dung mang tính triết lý cao, có tác dụng tích cực trong việc giáo dục thế hệ trẻ.

Vệ Thủy thần miếu thờ chính là hai ông Chánh Đội trưởng Đỗ Đăng Tào và Phó Chánh Đội trưởng Lê Văn Sanh. Ngoài ra còn phối thờ thần Thành hoàng bổn cảnh.

Các lễ cúng chính ở di tích hàng năm: Cúng vía ông Chánh Vệ Thủy (ngày 19 và 20 tháng 6 âm lịch); Cúng vía ông Phó Vệ Thủy (ngày mùng 1 và 2 tháng 10 âm lịch); Cúng lệ cầu an (ngày 19 và 20 tháng 1 âm lịch).

Vệ Thủy thần miếu là cơ sở tín ngưỡng dân gian, gắn liền với hai nhân vật lịch sử Chánh, Phó Vệ Thủy Đỗ Đăng Tào và Lê Văn Sanh. Từ cuộc đời hoạt động, chiến đấu của hai ông đã để lại tấm gương về lòng trung nghĩa, sắc son với xã tắc. Trong mọi hoàn cảnh, từ binh biến cho đến thời bình hai ông đều dấn thân, sáng tạo, mưu trí hành động nhằm đem lại lợi ích chung cho dân tộc. Việc tôn thờ hai vị thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, tri ân những người đã dày công khai mở và bảo vệ bình yên quê hương. Hai ông mãi là tấm gương sáng cho thế hệ hôm nay và mai sau học tập.

Ngày 30/9/2020, Vệ Thủy thần miếu được Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 2307/QĐ-UBND./.

Tác giả: admin

Tổng số điểm của bài viết là: 4 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 4 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

GIỜ THAM QUAN
Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần (Trừ thứ Hai).

Thống kê truy cập
  • Trực tuyến12
  • Hôm nay656
  • Tháng hiện tại9,628
  • Tổng cộng123,286
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
Gửi phản hồi